Cây dâu tằm không chỉ nổi tiếng với việc cung cấp nguyên liệu dệt lụa mà còn là một loại cây dược liệu quý trong y học cổ truyền. Theo đại danh y Tuệ Tĩnh, ông tổ của ngành Nam dược, các bộ phận của cây dâu như lá, rễ, cành, và quả đều có thể sử dụng để làm thuốc chữa bệnh.
Dâu tằm có tên khoa học là Morus alba có gí trị về kinh tế và là vị thuốc đề điều trị bệnh hiệu quả. Hầu hết các bộ phận trên cây dâu đều có tác dụng điều trị:
-Tang ký sinh: Là loài cây kí sinh trên cây dâu tằm, đồng thời là vị thuốc quý hiếm, có tác dụng bổ can thận, an thai, lợi sữa và mạnh gân xương.
Tang thầm( quả dâu chín): vị chua, có tác dụng bổ âm huyết, sinh tân dịch, nhuận táo.
Tang diêp( Lá dâu): Có tác dụng Giải cảm,hạ sốt,long đờm, giải độc. thường phối hợp với các vị gừng, lá muồng trâu, hậu phác, mã đè để điều trị ho.
Tang chi( cành dâu): được dùng để trừ phong thấp, thông kinh lạc, giảm đau nhức xương khớp, chân tay tê dại, co quắp.
Tang bạch bì( vỏ rễ cây dâu): Được sử dụng nhiều trong các bài thuốc chữa ho, hen suyễn, phù, viêm. Tác dụng của tang bạch bì giúp lợi tiểu, thanh lọc cơ thể.
Tang phiêu tiêu( Tổ bọ ngựa): Được sử dụng để chữa các chứng bệnh liên quan đến hệ tiết niệu – sinh dục như di tinh, liệt dương, tiểu nhiều, tiểu đêm, mộng tinh, xuất tinh sớm ở nam giới và khí hư, kinh nguyệt bế ở phụ nữ.
Bạch cương tàm( Sâu âu ngài tằm khi chết bị ký sinh bởi nấm): Điều trị các chứng bệnh như viêm họng, viêm phế quản, phong ngứa và một số vấn đề về sinh lý,
DSCKI Tạ Thị Bích Ngọc